Sau 5 năm thực hiện nhiệm vụ (2012-2015), đề tài đã đạt được các kết quả chính sau:
1. Điều tra và xác định ở các tỉnh miền núi phía Bắc có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển chăn nuôi đại gia súc nói chung và chăn nuôi ngựa bạch nói riêng do có diện tích bãi chăn thả rộng, người dân có tập quán chăn nuôi gia súc ăn cỏ từ lâu đời. Chăn nuôi ngwạ bạch chủ yếu với quy mô nhỏ lẻ ở hộ gia đình phổ biến từ 1 - 2 ngựa/hộ, từ 4 - 5 ngựa bạch/hộ chưa nhiều và thường là gia đình có điều kiện kinh tế nên nuôi ngựa bạch khó có thể nuôi đại trà, phổ biến rộng cho tất cả các gia đình. Nuôi ngựa bạch còn mang đậm nét văn hoá truyền thống, ngoài lợi ích về kinh tế.
- Qua điều tra cho thấy trên 90% ngựa bạch có thể chất thanh săn và lông da có màu trắng ánh vàng và trắng tuyền. Gần 100% ngựa bạch có màu hồng nhuận và hồng đỏ ở các lỗ tự nhiên.
- Tốc độ sinh trưởng tích lũy của ngựa bạch tăng dần từ khi sơ sinh đến trên 36 tháng tuổi, con đực đạt 153,12 kg, con cái đạt 146,96 kg.
- Tuổi động dục lần đầu của ngựa bạch trung bình là 20,83 tháng, chu kỳ động dục là 21,52 ngày, thời gian động dục là 7,78 ngày, khối lượng động dục lần đầu là 150,74 kg, thời gian mang thai là 328,52 ngày, tuổi đẻ lứa đầu là 34,97 tháng, thời gian động dục lại sau đẻ là 10,43 ngày. Ngựa bạch con sinh ra có màu sắc lông da và các lỗ tự nhiên giống với bố mẹ.
2. Phân tích và xác định được các chỉ số sinh lý, sinh hoá máu (hồng cầu, bạch cầu) và sinh lý của giống ngựa bạch (như thân nhiệt, nhịp tim, nhịp hô hấp) nằm trong khoảng sinh lý bình thường của ngựa và cũng tương đương số với những giống ngựa khác. Kết quả khảo sát giữa mùa đông và mùa hè không có sự sai khác. Hồng cầu 6,82 triệu/ml; Bạch cầu 10,29 nghìn/ml; Hemoglobin 11,56 g%; Bạch cầu trung tính 52,29%; Bạch cầu ái toan 3,95%; Bạch cầu ái kiềm 0,63%; Lâm ba cầu 40,49%; Đơn nhân lớn 3,01%; Albumin 2,64%; Globulin 4,45%; A/G là 0,59.
3. Nghiên cứu và xác định được ngựa bạch Việt Nam có tập tính nuôi dưỡng đặc trưng cho tính bầy đàn, ưa ăn thức ăn nháp, cạnh sắc, cần được chế biến thức ăn từ 3 - 4 cm để khả năng tận dụng của ngựa được tốt nhất.
- Tập tính sinh sản của ngựa bạch cái có thời gian động dục, chịu đực dài, thời gian chịu đực tới 7,0 ngày nên việc theo dõi động dục để tổ chức phối giống phải chặt chẽ. Tập tính nuôi con của ngựa bạch tốt, khéo, bảo vệ con, ngựa cái sau đẻ tự cho con bú đạt 87,5%.
- Ngựa bạch có tập tính bầy đàn cao, trên bãi chăn, sân chơi ngựa thường lấn át khi mới tiếp xúc, khi quen thuần thục thì đoàn kết và tự xếp sắp thủ lĩnh là những ngựa đầu đàn.
4. Xây dựng thành công 10 mô hình liên kết nhân giống (insitu) gồm 65 hộ gia đình tham gia phát triển đàn ngựa bạch Việt Nam tại các tỉnh như Bắc Kạn (2 mô hình), Lạng Sơn (2 mô hình), Bắc Giang (3 mô hình) và Thái Nguyên (3 mô hình) với quy mô 12 con/mô hình liên kết với tổng số lượng 120 ngựa bạch; 02 mô hình bảo tồn exsitu tại Thái Nguyên số ngựa nuôi là 15 con/mô hình (01 mô hình tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và 01 mô hình tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi -Viện chăn nuôi Quốc Gia). Tổng số ngựa trong các mô hình là 150 con, trong đó có 128 ngựa bạch cái và 22 ngựa bạch đực.
5. Tổ chức nhân giống và theo dõi, đánh giá đặc điểm di truyền qua ngoại hình của ngựa bạch bố mẹ và của đời con. Đàn ngựa cái sinh sản có tỷ lệ phối giống bình quân đạt 92,45%, và tỷ lệ đẻ trên 95,25%, cá biệt có một số mô hình có tỷ lệ đẻ đạt gần 100% con/ năm. Ngựa bạch con được sinh ra ở các mô hình có trên 50% mang đặc điểm di truyền, có màu sắc lông da và các lỗ tự nhiên giống với bố mẹ. Ngựa bạch con có khối lượng và tầm vóc nhỏ: Sơ sinh đạt 20,53 - 21,33kg, 36 tháng tuổi đạt 152,45 - 172,32 kg. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối chậm, giai đoạn 25 - 36 tháng chỉ đạt 6,80 - 18,31%. Tuổi đẻ lứa đầu là 34,91 tháng và thời gian mang thai là 328,12 ngày.
6. Tiến hành khai thác, đánh giá phẩm chất tinh dịch ngựa bạch nuôi tại Trung tâm đủ tiêu chuẩn để đông lạnh tinh dịch dạng cọng rạ. Bước đầu ứng dụng môi trường ly tâm tinh dịch, chế độ ly tâm hợp lý, môi trường đông lạnh tinh cọng rạ và các bước đông lạnh tinh cọng rạ. Chế độ giải đông, hoạt lực tinh trùng sau giải đông đạt > 35%. Chất lượng tinh cọng rạ ngựa bạch nghiên cứu và sản xuất có hoạt lực tinh trùng sau giải đông ổn định ở các thời gian bảo tồn.
7. Phân tích và xác định được hàm lượng các chất dinh dưỡng trong thịt ngựa bạch cao hơn thịt của các động vật khác (trâu, bò, lợn). Gồm nước chiếm 75,47%; tỷ lệ vật chất khô là 24,53%; khoáng tổng số chiếm 1,39%, đặc biệt hàm lượng protein cao (19,71%); hàm lượng lipit thấp (1,59%) và hàm lượng cholesterol thấp (131,1 mg%).
8. Phân tích và xác định hàm lượng các chất dinh dưỡng có trong cao xương ngựa bạch cho thấy tỷ lệ khoáng tổng số cao (5,08%), tỷ lệ protein cao (78,58%), tỷ lệ Ca là 1,16%, tỷ lệ P là 0,75%, hàm lượng các khoáng vi lượng cao như Fe (5,10 mg%), Zn (2,07 mg%), Cu (0,48 mg%) và Mn (0,09 mg%). Đặc biệt còn xác định trong cao xương ngựa bạch chứa 15 loại axit amin thiết yếu cần thiét cho cơ thể sống. Với hàm lượng các chất dinh dưỡng như trên thì cao xương ngựa bạch thực sự là một loại thực phẩm chức năng có giá trị dùng để bồi bổ cơ thể, tăng sức khoẻ và sức chống đỡ bệnh tật.
9. Nghiên cứu được 02 giống cỏ có năng suất cao phù hợp với chăn nuôi ngựa bạch và xây dựng quy trình kỹ thuật trồng cỏ, quy trình chăm sóc nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho ngựa bạch để phổ biến cho các mô hình áp dụng.
10. Tổ chức hội thảo khu vực để triển khai thực hiện nhiệm vụ, tập huấn kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho ngựa bạch sinh sản, trồng và chế biến cây thức ăn cho ngựa... Đặc biệt trong năm 2012 và 2013 đã tổ chức 2 lớp dạy nghề chăn nuôi ngựa bạch sinh sản cho các hộ chăn nuôi ngựa bạch trong và ngoài mô hình, có 63 người tham gia và được cấp chứng chỉ nghề.